Thứ Năm, 30 tháng 8, 2012

văn sĩ phạm duy khiêm ( 1908- 1974 France )


                                    văn sĩ  PHẠM DUY KHIÊM
                                          TỰ CHỌN CÁI CHẾT  RA SAO?
                                                        đường bá bổn  
                                                        
                Lời dẫn :    Phạm Duy Khiêm  sinh 24 - 4 - 1908 tại Hànội.   Trưởng nam nhà văn Phạm Duy Tốn.     Cha  mất sớm, khi ông 15 tuổi, đang học Troisième ( tương đương lớp 9 )  , thay cha làm cột trụ gia đình. Nhờ sự trợ giúp  một tư nhân, Phạm Duy Khiêm tiếp tục học tại Trường Albert Sarraut  ( Hànội ) cho tới khi tốt nghiệp tú tài văn chương cổ diển( Baccalauréat classique) .   Được cấp học bổng sang Pháp, đậu vào  École  Normale Supérieure ( Cao đẳng Sư phạm) , đồng môn  Thierry Maulnier ( sau  là văn sĩ ),  George Pompidou ( sau là tổng thống Pháp) v.v. ... , tốt nghiệp Agrégée de Grammaire ( thạc sĩ văn phạm ).
                 - 1939- 1940: tình nguyện  gia nhập quân đội Kháng chiến Pháp chống Phát xít Đức-Ý-Nhật.
                 -  tháng 7 / 1954,    Bộ trưởng đặc nhiệm tại Phủ thủ tướng ( Ngô Đình Diệm)
                 - 1955  , Cao ủy, rồi đại sứ Việtnam Cộng Hoà tại Pháp.
                 - 1957,    Đại sứ thường  trực  Việtnam Cộng Hòa,  bên cạnh tổ chức UNESCO , sau bất đồng quan điểm chính trị  ( thực ra là mâu thuẫn  về  quyền lực   giữa  bà  Ngô Đình  Nhu ( Trần Lệ Xuân )  xúc  phạm  danh dự   PDKhiêm )  nên ông  tự   bỏ nhiệm  sở.)                
                - 1957, nhận bằng tiến sĩ danh dự  Đại học Toulouse (  Pháo).
                 - 1958 Phạm Duy Khiêm  sống ở Pháp,  kiếm sống bằng nghề diễn thuyết, dạy học tư thục, đọc bản thảo cho nhà xuất bản , sửa  lỗi mo-rát nhà in ( morasse)   và duyệt sách cho Ủy ban Xét lại Pháp ngữ.
                  - ngày 1 tháng 12 năm 1974, Phạm Duy Khiêm  tự kết thúc đời  ông tại nhà riêng trong nông trại
 La Hertaudrie (  vùng Sarthe / France ) .   Có một câu văn đã nghĩ từ khi ông còn trẻ ám ảnh tới phút lâm chung : 
 " il faut justifier ma présence sur cette terre  /  ta phải biện minh sao đây cho sự có mặt trên cõi đời này ! "
                  - tác phẩm chính đã xuất bản :
                    VĂN PHẠM VIỆTNAM   ( viết chung với Trần Trọng Kim,  Bùi Kỷ - Hànội 1941)
                     DE HANOI À LA COURTINE
                    LÉGENDES DE TERRES SEREINES , 1942
                    LA JEUNE FEMME DE NAM XƯƠNG, 1944
                    NAM ET SYLVIE , 1957 ( ký NAM KIM)
                     v. v. ...  ( theo  WIKIPEDIA )

               Trong một bài viết  trên tạp chí NHÀ VĂN  số 3. 1975 ( chủ  trương: Nguyên Sa & Trần dạ Từ phát hành tại Saigon )  một tác giả viết về cái  chết Phạm Duy Khiêm :

          " Nhà văn  Phạm Duy Khiêm  mà chung ta từng yêu mến không còn nữa .." , Trung tâm văn  hóa Pháp tại Saigon  dành cho tác giả Légendes  des Terres Sereines, Nam  et Sylvie ...  dòng chữ mến tiếc trên đây, cùng băng-đơ-rôn  đen tưởng niệm văn sĩ Phạm Duy Khiêm  .  Báo chí Saigon đăng tải rất trang trọng, tạp chí Bách khoa số cuối năm 1974 dành hẳn một loạt bài đấy đủ tiểu sử, sự nghiệp, giai thoại .  Tuy nhiên, sự ra đi, lối sống, nhất là  việc tự chọn  cái chết, ngày chết, nơi chết và nhiều chi tiết khác mà chúng ta không thể quên lãng.
                Phạm Duy Khiêm, người Việtnam đầu tiên đậu bằng thạc sĩ văn phạm Pháp, từng giữ hức Bộ trưởng đặc nhiệm tạo Phủ thủ tướng  trong nội các Ngô Đình Diệm, Cao ủy rồi Đại sứ Việt nam Cộng hòa tại Pháp, người Việtnam viết văn đoạt giải Louis Barthou  -  tây phải mang giảng dạy trong chương trình giáo dục .   Con người tài ba đó đối với thế hệ đồng thời với ông,  tất nhiên  là một ngôi sao sáng , nhưng sự nghiệp văn chương lại viêt bằng pháp ngữ.,  đối với nhiều người thuộc thế hệ sau ông tạo ra không ít ngộ nhận .
                 Một số cac tạp chí chuyền vê văn chương đã thực hiện  số đặc biệt tưởng niệm . Có  lời bình :
 ".. Ông Phạm Duy Khiêm viết văn bằng tiếng Tây, thì  Tây tưởng niệm là đủ rồi  !"

              câu nói đầy khinh bạc này tuy chưa viết  ra, ít ra cũng thấp thoáng trong óc  một số người.   Nhưng dù chỉ là thấp thoáng nghĩ tới, thì đó là một ngộ nhận đáng tiếc !   Nhiều tác phẩm viết bằng pháp ngữ, tuy vậy tác phẩm đầu tiên 
VĂN PHẠM VIỆTNAM  viết  chung với Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ  bằng việt ngữ, góp công không nhỏ trong việc xây dựng viết chữ quốc ngữ ở thời kỳ  tiền khởi.   Một điều đúng  nữa, thứ ngôn ngữ của Racine mà ông Khiêm sử dụng tài tình, thì  đó chỉ là phương tiện chuyên chở cho  một tình tự thuần túy Việtnam;  mà ông đã thấm nhuần một cách tuyệt diệu.  ..  Trong các tác phẩm của ông, biểu tượng tinh thần việt, từ tác phẩm THIẾU PHỤ NAM XƯƠNG , vợ mang   hình bóng người chồng vắng mặt  hiện trên vách, qua bóng đèn dầu chiếu,   để dạy con , đến tình yêu TRƯƠNG CHI- MỴ NƯƠNG  tan thành khối ngọc tinh khiết ...  đều thể hiện ra sáng chói, có lẽ còn hơn nhiều tác phẩm việt ngữ khác.

                 Cố tổng thống  Pháp, Pompidou  viếng thăm  nước  Sénégal, gặp tổng thống xứ này là  L. S. Senghor , vốn đồng môn  Phạm Duy Khiêm ở École Normale Suérieure , bằng lời ngưỡng mộ :
                " Không một chút khó khăn, tôi nhận thấy ở các bạn tôi một thái độ kiêu hùng, hãnh diện về dân tộc và tha thiết với đất nước  ( tạp chí Bách khoa ) ".
           ...  Ông Khiêm  mất ở xứ người, hẳn nhiên còn để lại nhiều tài liệu, bản thảo văn chương quí giá.  Thiết  tưởng Bộ  Văn hoá, Bộ Ngoại giao .. hẳn nhiên có bổn phận  bảo quản , tránh khỏi thất tán như bao nhiêu di sản văn hoá khác mà chúng ta đã để thất tán!
                Một ngộ nhận khác , không chỉ  Phạm Duy Khiêm, mà còn nhiều nhà văn hóa khác  lưu vong xứ người, là bà con trong nước nhìn họ qua hình ảnh kẻ đắc thế một thời, bòn rút của dân, rồi mang vợ con cuốn gói di sống vinh thân phì gia ở nước người .  
               Phạm Duy Khiêm không lập gia đình, sống lẻ loi tới khi nhắm mắt.  Ông đã tự chọn một cách sống ẩn dật,  đạm bạc  trong những ngày cuối đời.  Tạp chí Bách khoa ( Saigon) , trong một bài viết về ông Khiêm   cho biết :    
               '  khi ông đứng  dậy khỏi chức đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại  Paris  vào 1957, vì không chịu chiều ý  một phu nhân của chế độ, quĩ mất tòa đại sứ ( thứ ông được quyền tiêu không cần liệt kê)  còn cả chục triệu quan, ông bàn giao lại hết, để rồi sau đó sống đạm bạc, nghèo túng. '   

                 Nhiều năm tiếp theo, ông sống bằng lợi tức khiêm nhường, từ việc dạy hoc tư, diễn thuyết, sữa mo- rát  nhà in, đọc bản thảo cho nhà xuất bản Pháp.    Chính phủ Pháp có lần mời  làm giáo sư  dạy tại các đại học ở Paris, ông từ chối - một lẽ, từng là  cựu sứ thần Việt nam Cộng hòa không thể trở thành công chức chính phủ Pháp.
           ... Phạm Duy Khiêm rút về sống ở  nông trại, cách tỉnh lỵ Tour hơn 60 cây số, dù  trên 60 tuổi , phương tiện di chuyển của ông   là chiếc  xe gắn máy,  sau là  một chiếc xe đạp.    Mấy tháng mới có 1 lần lên  Paris, ông đạp xe hàng chục cây số, gửi xe đạp tại nhà ga, rồi  đáp tàu điện.   Về mùa đông mưa  tuyết, đạp xe trên con đường  thường  bị té,  bạn thân kể lại gặp ông vào mùa đông, mặt mày ông bị xây xát, trầy trụa.

                Phạm Duy Khiêm qua đời vào   lúc mờ sáng chủ nhật  1- 12 1974., ông tự lựa chọn   cho ông ngày chết, cách chết.  Từ   vài năm sau  này, ông Khiêm bị bệnh mất ngủ, hơn nửa tháng trước ngày tự chọn , ông Khiêm đạp xe , đi tầu điện lên Paris thăm gia đình bà em, rồi dặn em và các  cháu; " nghe tin  anh chết đừng khóc ". ông cũng đi chào bạn hữu và nói: "  đây lần cuối gặp nhau".
                 Từ Paris về lại nông trại  La Hertaudrie ( vùng Sarthe) , ông soạn  sẵn giấy tờ,  gửi sẵn tại notaire và người thân biết quyết định tự chọn cái chết.  Ông cho họ biết  số điện thoại của  gia đình người em ở Paris, và 1 số điện thoại khác của một học trò cũ, ông BÙI XUÂN TOÀN
                   sửa soạn chu đáo xong,  chiều thứ bảy 30 - 11- 1074, ông  mang chìa  khóa sang nhà hàng xóm gửi.

                   sau này, gia đình hàng xóm kể lại :
                  - sáng chủ nhật 1 - 12- 1974, họ đi qua nhà ông, thầy đèn sáng, nhưng không gọi.  
                 - sáng thứ  hai , 2-12- 1974 thấy đèn vẫn sáng, họ  sinh nghi, đập cửa.
                 - không ai lên tiếng. Họ  đi vòng ra sau nhà, nơi có một đầm nước  cạn, đóng thành băng, và tìm thấy ông Khiêm nằm  soải dài trên mặt băng, tay  nắm chặt chùm chìa khóa .

                  Tin ông Phạm Duy Khiêm  mất được tỉnh trưởng  tỉnh Tour , đích thân ông báo tin cho người thân của ông.  
                  Mọi người đổ xô tới, ngôi nhà còn nồng nặc khí gaz; ông đã  mở 2 thùng gaz -   bệnh mất ngủ  hành xác, mệt trí óc, chán chường bủa vây  mãnh liệt   , chẳng thiết sống, chọn cái chết hệt tác giả AMOK!    
               
                 Miền Sarthe, nơi nông trại ông sống, chỉ có  khoảng 400 cư dân, không nhà đòn tang.  Quan tài phải  chuyển  ra nghĩa trang bằng chiếc xe hơi người hàng xóm . Chính quyền tỉnh Tour  đã dành một nghi lễ danh dự cho đám tang  văn sĩ Phạm Duy Khiêm.
                   Báo chí đăng tải đầy đủ chi tiết về cái chết văn sĩ Phạm Duy Khiêm, cái chết tự chọn thật đáng nguyền rủa !
                  Hội nhà văn Pháp quốc lên tiếng  phiền trách chính quyền Pháp  không lưu tâm đến    đời  sống  1 văn sĩ tài ba , kể cả  mức sống thiếu thốn , bệnh tật  hành hại,  không ai hay biết, khiến tổng thống Pháp quốc  phải vội vàng đích thân gửi thư tới quốc dân ,  hứa, sẽ đặc biệt lưu ý trường hợp này !  

                  ... Kẻ hậu sinh ( LIÊN HẠ )  viết bài này  chưa hề  có dịp gặp gỡ ông lúc sinh thời, nhưng muốn ghi chi  tiết về cái chết đặc biệt , nên tìm nhạc sỹ Phạm Duy, bào đệ của   ông,  hỏi cho ra lẽ. 
  Hỏi:
        - viết  rõ vụ ông Phạm Duy Khiêm tự chọn cái chết, có gì tế nhị , về  phía gia đình ông thấy cần phải bớt đi không? 
 Đáp:                 
      - việc thì phải giấu ?  không phải đây  là ý riêng của tôi, mà  còn  là ý kiến của bà chị.  Thư bà chị viết  về đây, đề ngày  24 - 12 - 1974 :
                      ... cả đời anh Khiêm  như tờ giấy trắng.  Suốt đời cương trực, trong sạch, chả xu nịnh ai, không tham danh, tham lợi, đáng làm gương cho những kẻ sông trên xương máu đồng bào.  Đời sống cũng như cái chết của anh, chả có gì phải giấu ... [] 

   LIÊN  HẠ  


 trích một đoạn  trong tiểu thuyết "  NAM & SYLVIE "


                      

                                                           si tu t'en vas , sylvie ...

                                                                    
          (...)     
      Vint  la rentrée que je dois redoutais tant.
      Elle se fit en deux étapes : à l'École d' abord, puis trois jours après , à là Sorbonne.
      Ce matin-là, en arrivant à l' École, où  j'étais déjà retourné récemment pour prendre des livres, je recus un choc dès le hall.

           Il y a  des lettres  dans les casiers, qui portent maintenant des étiquettes aves des noms.
           De plus des affiches nous convoquent chez le directeur, chez les agrégés-répétiteurs.

         Ce n'était rien encore.  Mes camarades de turne me réservaient d' autres émotions, sans s'en douter.

         A  l'économat, on m'indique ma nouvelle turne, en me remettant  une clef et une lampe.  Je gripe au " palais" , j'ouvre : Cadot et Baudry sont plongés  l'un dans les tragédies de Voltaire, l'autre dans le Phèdre de Platon, en prenant des notes.  Et cela me fait peur, me fait mal : déjà, déjà, et si fort !
           C'est une impression que j'ai n'ai pas ressentie depuis longtemps, que je croyais n' avoir plus à ressentir cette amie, ayant déjà commencé à travailler. Est-ce  parce que je n'ai pas poussé l'acharnement à ce point.  Ou bien la vue des autres en plein travail vous frappe- t-elle davantage ?
             En tout cas, me voilà emprisonné dans les horaires .  Finis les rendez-vous lancés au basards !  Comme elle est loin, Sylvie ! Je ne pourrai plus la regarder avec les mêmes yeux : toujours se dressa le spectre de l' agrégation, l'image de ces bu^cheurs .

            J'avais  choisi de preparer l'agrégation de grammaire, supposant que je risquais  peu d'échouer dans cette section, òu je n' avais pas  à affonter une concurrence aussi redoutable  qu'ailleurs .  Malheureusement, la matìere elle-même n'était rien de moins que rébarbative, pour moi surtout.  Je n'avais jamais réussi à y pénétrer vraiment, loin de  l' absorber comme je l'aurais du^, et  à   la licence j'avais obtenu de justesse le cerificat de grammaire et philologie, après avoir passé aisément les trois autres.  Mes appréhensions et  mes angoisses n' étaient  donc que trop fondés, et l'hiver qui s'annoncait allait se révéler comme le plus affreux de ma vie .  
           Sylvie n'y pensait point.  Elle n'avait ailleurs jamais pu admettre ma faiblesse, persuadée que
j' exagérias.
            Ce n'était malheureusement  pas le seul sujet òu l'entente parfaite ne régnait pas entre nous.
             Depuis la visite de ces vingt et un ans, près de deux semaines s'étaient écoulées, et nous ne nous étions pas revus : après avoir pris froid, elle eut d' autres empêchements.  Finalement elle promit une rencontre pour le lendemain de cette rentrée à l'École, sans fixer d' heure.   Je ne recus rien jusqu'au jour dit, òu le premier courrier m' apporta un mot annoncant un coup de téléphone, un télégramme ou un pneu dans la matinée !  En vain je guettai un signe jusquà 2 heures.  Alors seulement elle me téléphona de venir à là Porte  d'Orléans .
             Dès qu'elle arrive :
              - Je dois rentrer par le train de 4 heures un quart.
             ( C'est-à -dire : elle me quitte dans une demi-heure !)
              Je réplique :
             - Si tu t' en vas, ce serai fini .
             Seulement je plaisante ensuite :
             Comme elle affirme qu'elle ne  peut rester, je la ramène vers le métro, marchant en silence, lui répondant à peine.  Enfin, je prends un billet pour elle .
             Elle  ne se décide pas à s'éloigner.
             - Pourquoi se tirailler ? dis-je .  Je sais que  je regretterai, mais tant pis !
             Elle est alors obligée de me tendre la main.
             Elle n'á pas essayé de me retenir, soit parce qu'elle l'avait fait une fois déjà, soit parce qu'aujourd'hui une longue queue attend devant le guichet, tout près de nous, et la présence de ces témoins a pu l' arrêter avant un geste  humiliant.
             En rentrant , je me sens beaucoup moins triste que je ne devrais l'être : rien qui secoue le coeur, le pince, comme l'autre fois.   Est-ce parce que je ne crois pas à une vraie rupture ?  
 L' aimerais-je moins à cause  de son attitude de ces derniers temps ?  Elle aurait pu s'expliquer, se montrer un peu délicate.   Ainsi, aujourd'hui, il eu^t suffi d'un certain ton, d'un regard, d'une parole en arrivant  ...
              
               Rupture ou sculement menace de rupture ? Je n'eus pas le loisir d'y réfléchit longtemps : deux jours après, ce fut la rentrée générale de l'Université, la vraie rentrée.
                Cours à la Sorbonne, cours à l'École, foule d'étudiants, attente  vaine des  professeurs absents, pr par des examens - attente pendant  laquelle je me rongeais, on seulement angoissé à l'idée du travail, mais surtout oppressé par cette atmosphère de rivalité et de calculs - la journée fut pour moi épouvantable.
                 Je ne laissai pas de régir cependant : témoin la longue lettre que j'écrivis à Sylvie  d'une  traite vers 10 heures du soir, et que lendemain, en me réveillant, sur le souvenir de ces heures-là et avant de relire, je voulus supprimer.  Lettre inattendue sous plus d'un rapport .

                                                                              Lundi soir,
 
     Sylvie, je viens de pleurer,  Les résolutions que je prends me déchirent; mais elle sont nécessaires si j'ose viser à l'agrégation cette année.   Et le dernier sacrifice, consenti à l'instant même, celui qui m secoue, me fait sangloter comme une pauvre femme, le voici : je m'impose de chasser immédiatement votre image chaque fois qu'elle surgira dans mon esprit.  Je l' ai décidé parce que c'est une marque su^re de volonté, parce que c'est un grand pas, celui par lequel il faut commencer.
     Depuis samedi, je n'ai cessé de penser à vous.  J'ai voulu d' abord vous écrire :  " Sylvie, nous nous séparons,  mais je n' oublie rien de ce que nous avons  vécu ensemble.  "  Je ne l'ai pas écrit.  J'ai ensuite  songé  à dire : " Voulez-vous que nous nous rencontrions tel jour ?  Pardonnez-moi si vous souffrez ?" Je ne l'ai pas fait non plus. Aujourd'hui, depuis ce matin, plus d'une fois plongé dans la détresse, je n' ai point cédé au désir facile de tendre les bras vers vous.
       Si j' écris maintenant , c' est parce que ma décision est sans appel : non seulement ne plus vous voir, mais me défendre même de penser à vous.   Je m'autorise donc à pleurer et à vous écrire, avant cette dernìere rigueur contre moi-même.
        Mais ce n'est pas tout ce qui m' est venu à l'esprit. Dès que j'eus accepté de me sacrifier, une question s'est immédiatement posée : dois-je vous sacrifier, vous aussi ? Sylvie, je ne ruse ni avec vous, ni avec moi-même.  S'il arrive que nous revoyions, je serai comblé; mais  je m'interdis de le chercher.  Soyez donc simple et franche.  Si vous souffrez, venez.   Vous n'avez pas à vous imposer des duretés inutiles; pour moi seul, elles sont nécessaires.  Mais si vous sentez au contraire que  vous oubliez facilement, que vous vous consolerez, ne répondre point.
        Je m' apercois aussi que j'exigais parfois trop de vous, précisément parce que vous aimais dans cet état, je ne réfléchissais pas suffisamment, je manquais de générosité.   Il faudra me montrer moins égoiste, en tenant compte de vos obligations .   Il m' arrivera d' être très contrarié, mais je me plierai.  Soyez  plus douce si possible, Sylvie, plus personnelle dans la douceur, comment dirais-je ?  ayez de l'initiative dans votre tendresse, de l'assurance dans votre amour.
        Ah!  je parle comme je devais  vous retrouver.  Mais si, nous nous retrouverons !
       Sylvie, si vous pouvez, je vous verrai jeudi.

          La réponse  vint vite, et telle qu'on aurait pu la prévoir : dès le lendemain mercredi, avec un rendez-vous pour le jour même, sans attendre  " jeudi". 

          C'est la première fois  qu'elle m'embrasse presque en pleine rue.
          En recevant ma lettre, elle a été bouleversé :
         " Elle ne sait plus; elle casse tout, se brise les ongles en fermant l'armoire ."
          Elle viendra demain soir ; elle l'affirme au point de m'étonner, puisqu'elle n'en a pas parlé à sa mère.
          Celle-ci ne pouvait pas croire que nous ne nous voyions plus.  Elle a même dit hier :" Toujours fâchés ? Pas possible !  Pourquoi ne lui écris-tu pas ? Tu as été peut-être trop vive" . Sylvie l' a prise à partie : " C'est ta faute : tu m'empêchais de sortir !" Et elle s'est montré particulìerement violente et dure.
             Quand j'annonce que j'ai un voeu à exprimer, elle m'arrête, craignant que ce ne soit une mauvaise nouvelle qui gâte notre rencontre.  Mais je la prie seulement d' accepter que désormais   , par cette année de malheur òu les minutes me sont mesurés,  je ne la ramène plus à là gare. 
             
            Le lendemain , si je fais le compte d'après mon journal, nous eu^mes tout juste deux heures et demie dans l'appartement de Jeanne.  Elles me parurent cependant " une nuit".

           Une des nuits   le plus pleines, malgré  sa brièveté.  Une des plus voluptueuses, avec presque rien cependant, avec rien.  Est-ce parce qu'elle fait preuve " d' initiative", comme je lui ai suggéré dans ma lettre ?   A certains momnts, notre communion dans la tendresse et dans le plaisir est telle que je me demande à la fois ;" Que faut-il de plus pour que ce soit parfait ?" et :" Comment pourrons-nous nous quitter ?".  [] 

 (...) NAM KIM ( PHẠM DUY KHIÊM )


   
 source:  NAM ET SYLVIE  / NAM KIM
              ( Paris , Librairie  Plon,  1957 -  p.  67 - 74 )     

Thứ Ba, 28 tháng 8, 2012

họa sĩ dương bich liên , như tôi đã biết / bài viết: nguyễn anh thi



                              họa sĩ dương bích liên , như tôi đã biết ...*
                                                      bài viết : nguyễn anh thi


                      Lời dẫn .-  Ông sinh 1924 mất 1998, sinh viên khóa cuối cùng  Trường  Mỹ thuật
                                Đông Dương.   Một trong số ít ỏi những nghệ sĩ lãng mạn còn sót lại
                                của thế kỷ XX.    Ông luôn luôn đi  đến sự lãng mạn trữ tình trong đời sống
                                riêng tư của họa sĩ,  và cả trong tác phẩm nghệ thuật. ...


               Năm 18 tuổi , Dương Bích Liên được gửi gấm học họa với thầy Hoàng Lập Ngôn .  Và sự dun rủi ấy đã đưa họa sĩ vào cuộc phiêu  luu nghệ thuật đầu tiên.   Nhà lăn mê ly, cái nhà Mê Ly  ấy đến nay vẫn làm các nghệ sĩ kính  phục.   Một con ngựa kéo, một cỗ xe đóng 2 tầng, trên chép đầy thơ và chữ ký lưiu niệm các thi sĩ bè bạn.  
                Xe khởi hành từ bờ hồ Hòan kiếm với 5 người:   họa sĩ Hoàng  Lập Ngôn, Song Văn, Dương Bích Liên,  vợ ông Ngôn và  cô con gái Mê Ly.   Hô quyết định làm   một cuộc phiêu du vào Sài Gòn, hết tiền thì kiếm sống,  bằng cách diễn kịch ở dọc đường.  
               Dương Bích Liên ít nói,   trầm tính, đã đi theo cái nhà lăn có 1 không 2 ấy - bỗng nhiên đột ngột giã từ để về theo học  Trường  Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương. Sau, ông chuyên vẽ tranh phong cảnh và  chân dung thiếu nữ.   Ông ít khi đi xa, song cũng có đôi lần đáng nhớ, ấy là một lần ở những năm đầu Kháng chiến chống Pháp , ông được cử vẽ  Bác Hồ.   Ông hoàn thành bức sơn dầu nổi tiếng " Hồ Chủ tịch đi công  tác ", một bức tranh được mọi người nhớ đến  vì chất trữ tình của nó,  thêm vào đó, quan trọng hơn là sự hiểu biết của họa sĩ vì mối quan hệ giữa cá nhân và thiên nhiên.   Tuy nhiên, cũng có một dự định sáng tác mà họa sĩ chưa làm được.   Trước  lúc mất, ông trối trăng:
               " Những ngày sống cạnh Bác Hồ, một hình ảnh mà tôi không quên và đã nhiều lần dự định đưa lên toile .  Đó là mùa đông, chiều về , Bác thường ra ngồi hút thuốc trên một thân cây đổ, khoác chiếc áo blouson trên vai,  vun những chiếc lá khô, rồi châm lửa đốt từng cái một, cho đến  hết  ngồi sưởi, dưới làn khói lam chiều và suy tưởng bên núi rừng Việt Bắc.   Ngoài những sư vĩ đại toát lên từ con người Bác, có một điều khác nữa; đó là sự  cô đơn.   Một sự cô đơn hết sức lớn lao.  Tôi bị xúc động mạnh ở khía cạnh này.  Chính Bác Hồ rất  artiste  ( nghệ sĩ ) .  Đó là ý nghĩ của riêng tôi và tôi sẽ làm tranh với xúc cảm đó "
               Tiếc rằng ông đã mất trước  lúc vẽ lại  được cảnh một con người ngồi vun lá khô rồi đốt từng chiếc một cho tới hết để sưởi ấm vào một chiều đông ... 
               Chuyến đi thứ 2 của Dương Bích Liên  là chuyến đi thực tế sáng tác.   Họa sĩ được cử đi Quảng Ninh cùng một đoàn đông đảo các văn nghệ sĩ có tên tuổi.   Trong lúc mọi người thay đồ công nhân, mang đèn, xách  choòng đào than  lên mỏ hòa nhập  với thực tế cuộc sống, thì  Dương Bích Liên leo lên đồi đi chơi, nằm nghỉ.    Sau này,  khi các họa sĩ, nhà thơ cùng đi về, đều sáng tác hàng loạt  tác phẩm  phản ánh thực tế mỏ than, thì Dương Bích Liên chỉ vẽ được 1 bức tranh duy nhất.   Đó là bức NHÀNH LAU BẠC, tranh vẽ  một nhánh lau bạc bạc xám bay phơ phất trong gió chiều trên đồi vắng.   Về sau, ông vẽ lại bức NHÀNH  LAU BẠC  bằng sơn mài , thêm vào một mái lều chông chênh hoang vắng.    Tranh có tựa
 LỀU HOANG, cả 2 bức đều  là những bức tranh khiến người xem không sao có thể quên !   Nỗi buồn xa vắng, sự cô đơn của con người, nỗi niềm suy tư sâu sắc về thân phận con người ...những gì mà hoạ sĩ muốn vẽ trong tranh.
                 Sau vài cuộc phiêu du  nho nhỏ ấy, Dương Bích Liên ít khi có cơ hội đi xa.  Ông ở Hànội, sống  như 1 người Hànội chính cống.  Ông vẽ cây, bầu trời, gương mặt thiếu nữ, trẻ em.   Ông ít giao du với giới nghệ sĩ ( ngoại trừ bạn bè thân thiết )  và các nhà phê bình.  Ông cũng chưa từng triển lãm  riêng hay bán tranh cho ai.   Họa sĩ được cấp phát mấy chục đồng lương và không bao giờ ông đi họp.   Nhiều người khó chịu về ông, họ gọi ông là họa sĩ lười .   Chỉ có bè bạn thân , các người mẫu và lũ trẻ con vẫn thích lân la cạnh bên họa sĩ .   Những chiều đông  đầy lạnh giá, Dương Bích Liên  thường được mấy cháu bé hàng xóm, ở cùng  dãy nhà số 55  Bà Triệu tới thăm.   Ông hay mua quà cho các em , song có 1 hôm hết tiền, tìm quanh quất khắp nhà, chỉ còn vụn bánh mì, ông bèn bẻ nhỏ, rắc trên cửa sổ cho lũ chim bồ câu nhặt.    Có khi chim không ăn hết, ông nhặt nhạnh lại, rửa sạch, đem trộn đường, chiên lên; món quà thời bao cấp ấy vô cùng  quý giá đối với các chú bé con.  
                 Bọn trẻ ở 4 xóm Hạ Hồi , nơi họa sĩ từng ở 1 thời gian, chúng gọi ông là  Hôxê-Mácty .   Bởi ôngt ừng chơi trò đóng kịch  với lũ trẻ, chúng trói ông lại ( giả làm Hôxê-Mácty)  vào cột nhà  bằng khăn tay.  Rồi các tay súng phun nước xếp thành hàng xung quanh, chĩa miệng súng vào ngực ông .   " Bắn đi, các chú lính, đừng hèn nhát như thế ! ".  Các tay súng phun nước   ... với đám người Dương Bích  Liên , ông từ từ ngã người xuống như Hôxê Mácty đã hy sinh một cách dũng cảm.
                  Dương Bích Liên đã mất 5 năm nay , giã từ cuộc đời khi tuổi vừa 64.   Họa sĩ không muốn mình xuống tàu ở ga cuối cùng.   Ông không muôn sự già nua, bệnh tật,  làm hỏng đi trí tuệ và bàn tay tài năng.                 
                  Bức tranh cuối cùng  còn dang dở ông để lai, có tựa đề  NGÕ CỤT, tranh vẽ  một người đi lang thang trên đường, đang  mải tìm  cái gì đó, không thấy nẻo về ... Ông sống trầm lặng, vẽ một cách lặng lẽ.    Dương Bích Liên để lại cho đới cái đẹp, ông luôn đi từ  cái lõi, chiều sâu suy tư, cảm xúc, rung động thật sự, nỗi khát vọng say mê ...  để xây dưng tác phẩm với  đường nét sắc sảo nhất, bố cục tối ưu nhất, mầu sắc tinh tế nhất ... để thể hiện trong tranh . 
                  Xem tranh Dương Bích Liên ,. như được nghỉ  ngơi, yên ả thưởng thức, như thấy niềm yêu thương dạt dào,  nhưng đôi khi đượm chút buồn còn lại.   Và những tình cảm lành mạnh, trong sáng,  đầy tình người trong tranh của ông làm chúng ta muốn xa lánh, trút bỏ những điều  ÁC để hướng về cái THIỆN.
                  Tôi vẫn nhớ Dương Bích Liên ,  và tôi biết, có rất nhiều người còn nhớ tới ông, nhất là lũ trẻ con và các thiếu nữ Hànội.   Ông là Dương Bích Liên , người đủ sức tưởng tượng ra đám tang của mình, trước khi giã từ cõi dời :
                  " Tôi sẽ chết  vào ngày cuối cùng của năm.  Đám tang của tôi, có lẽ chỉ có  vài bạn bè, và có khi cũng chẳng có ai cả - chỉ một cậu bé trên 10 tuổi, ăn mặc rất tơ-nuy ( tenue:  chỉnh tề, chững chạc), mặc complet, đi giày, thắt nơ, theo sau quan tài đưa tôi ra khỏi thành phố vào một buổi sáng."  []

NGUYỄN ANH THI
 --------------
kèm ảnh tác giả đi guốc mộc, ngồi trên chiếc ghế đẩu, 2 tay đặt trên đầu gối, vẻ mặt  thẫn thờ.
( Biên tập chú thích )
 --------------

nguồn:   báo nguyệt san VĂN HÓA -
              số 1- 1994,   Hànội  -  tr. 53 )

Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2012

ngô thị mỹ trang: hàng đầu của thơ hay hôm nay / bài: thế phong



                                    NGÔ THỊ MTRANG 
                                  HÀNG ĐẦU CỦA THƠ HAY HÔM NAY
                                               thế phong  giới thiệu

Lời dẫn:    tác giả MÙA ĐÔNG SÀI GÒN,  tập thơ  chỉ  64 trang, 51 bài ,  khổ 14 x 20cm  (  Nxb Trẻ tp. HCM, 2000 ) lại có  nhiều bài hay.  ( tất nhiên theo tôi) .
             Khi đọc ĐÉN XANH ĐÈN ĐỎ   đăng trên báo Tuổi trẻ chủ nhật ( số 03 / 99) , tôi viết :
 "...    trường hợp  Lê Thị Ý ( hiện ở Virginia )  không phải là  một; tôi đơn cử thêm, một bài thơ khác của Ngô Thị Mỹ Trang sau đây - có phải là bài thơ hay  ?. Nếu  được chọn, ắt tôi sẽ đặt bài thơ này vào hàng đầu của thơ hay hôm nay . "  *

                                              ĐÈN XANH ĐÈN ĐỎ 

                                              Tôi  đi qua ngã tư
                                              Đèn xanh đèn đỏ
                                              Mỗi ngày năm sáu lần như thế 
                                              Đâu có thấy gì  ngoài đèn đỏ đèn xanh
                                              Bỗng một hôm ngó lại
                                                                                   lòng mình 
                                              Thấy có lúc cũng đèn xanh đèn đỏ
                                              Này nhé những tình yêu không dám tỏ
                                              Vì chờ hoài không thấy đèn xanh
                                              Đôi khi bóng người đâu đó quẩn quanh
                                              Không tới được vì đèn xanh đèn đỏ
                                              Rồi nuối tiếc những gì đã lỡ
                                              Bởi chùn chân khi thoáng thấy đèn vàng 

                                             Ngày lại ngày năm tháng thênh thang 
                                             Tôi vẫn sống, vẫn ăn vẫn thở
                                             Tôi lại đi qua những ngã tư
                                                                                         đèn xanh đèn đỏ
                                             Nhấp nháy dễ thương như tín hiệu
                                                                                           cuộc đời
                                             Cảm ơn nhiều đèn đỏ của lòng tôi
                                             Đã giữ lại những gì nên giữ lại .

                                                 NGÔ THỊ MỸ TRANG
                                              ( Tuổi Trẻ Chủ Nhật, số 03 / 99 , tp. HCM)

              ( trích  THƯ VIẾT Ở SAIGON / THẾ PHONG  -
                                ( Nxb Văn Uyển, San Jose, USA 2000, tr. 154)


trích nguyên tác thơ   ngô thị mỹ trang

                                         1. mùa đông sài gòn

                            Khoác chút áo màu ra phố
                            Lang thang mùa đông  Sài Gòn
                            Lòng bỗng xanh tình ngày nọ
                           Tháng ngày qua ngỡ héo hon 

                            Khoác chút áo màu ra phố
                            Thèm một tình yêu trắng trong
                            Anh đi đâu mùa khốn khó
                            Em cô đơn đến ngại ngùng

                            Khóac chút áo màu ra phố
                            Chao ôi thèm một bàn tay 
                            Ủ một bàn tay bé nhỏ
                            Hiu hiu góc tối lạnh gầy 
                 
                            Khoác chút áo màu ra phố
                            Thấy mình cũng như người ta
                            Cũng áo len dài cổ lọ
                           Cũng giả vờ run xuýt xoa 

                            Khoác chút áo màu ra phố
                            Thấy mình không như người ta
                            Lang thang một mình ngu ngốc
                            Mà tim nhoi nhói thật thà

                             Khoác chút áo àmu ra phố
                             Thấy mình cũng như người ta
                             Thấy mình không như người ta .
                                                             ( tr. 7 )

                                         2. nghịch lý

                             Khi em ghét anh
                             Cái gì thuộc về anh em cũng ghét
                             Cái miệng cười có duyên hết biết
                             Cũng trở nên trơ trẽn lạ kỳ
                             Tiếng chân anh bước
                             Dáng dấp anh đi
                             Sao mà  vô duyên quá sức 

                             y vậy mà nếu bỗng dưng anh biến mất
                              Còn ai là người bất hạnh hơn em !
                                  
                                                               ( tr. 15)

                                             3.  tìm quên
                     
                               Con trai tìm quên  trong men rượu
                               Con gai tìm quên trong gì đây ?
                               Làm sao cho thành sầu sụp đổ
                               Làm sao vơi nỗi nhớ đang đầy

                               Con trai tìm quên trong khói thuốc
                               Giọt cà phê đắng một ngày buồn
                               Con gái  ngắm  bóng mình ngơ ngác
                               Giữa ngày quên là tháng nhớ mông mênh  

                               Con trai tìm quên trong cuộc vui
                               Trận cười thâu đêm vùi nước mắt
                               Con gái ngồi ôm điều nhỏ nhặt
                               Góp thành niềm nhức nhối lớn lao 

                               Con trai tìm quên  ... nơi người khác
                                Bên mắt môi này nhớ mắt môi xa
                                Con gái quẩn quanh hoài ngõ chật
                                Đi đâu không thoát khỏi mái hiên nhà 

                                Con trai tìm quên và sẽ quên
                                Con gái muốn quên mà cứ nhớ
                                Nên trần gian không dứt nợ  yêu nhau .
                                                      ( tr. 20)


                               4. mầu thiên thu
                                          tưởng nhớ cố thi sĩ Bùi Giáng

                                 Lơ ngơ lạc cõi vô thường 
                                Ấy người Bùi Giáng bó đường chiêm bao
                                Trung Niên  Thi Sĩ về đâu
                                 Lá hoa cồn  * đã xanh mầu thiên thu 
                                 Mưa nguồn * rơi cõi xa mù
                                 Chút lòng tưởng nhớ phù du kiếp người
                                 Ngàn thu rớt hột  * nửa vời 
                                 Người hôm nay đã là người hôm qua   
                                                                   8 / 10/ 1998.
                                                         ( tr. 21)  
                                 ---------
                                 * tựa  đề  các tác phẩm Bùi Giáng
                                               ( BiênTập  chú thích)
                                 ----------

                                       5.  cà phê sữa

                               Màu trắng ngà của sữa
                               Nằm im dưới đáy ly
                               Giọt cà phê óng ả
                                Rơi từng nụ thầm thì

                                Hai màu trắng và đen
                                Sao vô cùng phân cách
                                Để rồi trong giây lát
                                Sẽ hòa tan vào nhau 

                                Mình có tan vào nhau
                                Như cà phê và sữa ?
                                Hay suốt đời cắc cớ
                                Riêng anh và riêng tôi
                                Hay suốt đời thầm gọi
                                Cà phê  ơi sữa ơi ...

                                                   (  tr. 30 )

                                     6  mong manh

                               Em lai nằm mơ thấy anh
                               Thấy mắt nồng nàn tình tự
                               Trăng gió đầy tay em giữ
                               Sao không giữ được tình anh ?

                              Anh lạ lùng anh mong manh
                              Hắt nụ cười buồn ngạo nghễ
                              Tình yêu bắt nguồn tự cội rễ
                              Sao không tới được ngọn ngành ?

                              Mơ hồ mấy ngả loanh quanh
                              Không hiểu nơi đâu là thực
                              Anh còn hay anh biến mất
                              Mà em mộng phủ vai gầy
                              Mà em một trời nuối tiếc
                             Chiều hôm ngừng lại không đi .

                                                             (tr. 31)

                                    7   chút tình tháng chạp

                             Khi không anh lên Đà lạt
                             Khi không em xuôi đồng bằng
                             Tháng mười hai trời ngơ ngác
                             Tháng mười hai trời bâng khuâng

                             Khi không anh miền rét mướt
                             Lang thang giữa phố hoa quỳ
                             Khi không  áo len xuống núi
                             Em nhớ anh
                             Và
                             Em đi


                             Sương mù ngỡ ngàng đậu lại
                             Loanh quanh không thấy lối về
                             Thương quá chút tình vụng dại
                             Run giữa mùa đông sắt se

                             Nay mai em về Đà lạt
                             Sẽ biết anh vừa ra đi
                            Gửi em tình anh tháng chạp
                            Vàng rơi cuồng ngã hoa quỳ .

                                                   ( tr. 35)

                                                 8.  em

                            Em cho anh được những gì
                            Ngoài đôi mảnh vỡ với tì vết xưa
                            Em làm gì cho anh chưa
                            Ngoài đêm nhung nhớ giữa mùa quạnh hiu
                            Em thương anh được bao nhiêu
                            Ngoài câu thăm hỏi ra chiều xót xa
                            Em là qủy,  em là ma
                            Cứ theo ám ảnh nhạt nhòa mơ anh
                            Lạy trời cây cỏ còn xanh
                            Để em theo mãi anh bên mộ đời
                            Lạy trời hoa lá còn tươi
                            Để em giấu một nụ cười ... cho anh .

                                                            (tr. 37)

                                         9.  anh
           
                            Anh cho em được những gì
                            Ngoài câu nuối tiếc xuân thì hôm qua
                            Anh thương em được bao xa
                            Ngoài vòng tay với chạm tà áo bay
                            Theo em được mấy dốc dài
                            Chỉ đôi bước ngắn đã hoài cố nhân !

                                                            (  tr 38 )

                                        10.   hai trong một
                   
                             Trong tôi luôn có hai con người
                             Người này khóc, người kia cười
                             Người này buồn, người kia  vui
                             Người àny mặt trăng, người kia mặt trời

                             Người này tình  đầu, người kia tình cuối
                             Người này muốn nhớ,  người kia  bảo quên
                             Người  cười ngất trời, người sầu đắm đuối
                             Người thì tỉnh táo, người lại điên điên

                            Trong tôi vì sao trong tôi nghiệt ngã
                             Nửa tim yếu mềm, nửa tim hóa  đá
                             Nửa câu ghét bỏ, nửa xin yêu thương
                             Nửa ôm địa ngục, nửa với thiên đường
                             Em níu tình anh, con người bên trái
                             Em dứt tình anh, con người bên phải
                             Em chạy vòng vòng về lại với em ...

                                                            ( tr. 39)

                                             11.  cám ơn

                            Cám ơn anh đã yêu em
                            Đã đem chút nắng vào đêm rất dài
                            Đem tình chất nhẹ lên vai
                            Cho em nghiêng ngả một vài tứ thơ
                            Cám ơn anh đã dại khờ
                            Để em được thể giả vờ yêu anh


                              thơ NGÔ THỊ MỸ TRANG

nguồn:  MÙA ĐÔNG SÀI GÒN / NGÔ THỊ MỸ TRANG -
              ( Nxb Trẻ, tp HCM, 2000 ).

..